Lịch sử Triều Konbaung

Thành lập

Vương triều được thành lập một cách oanh liệt bởi một từ trưởng, sau này được biết tới là Alaungpaya. Năm 1752, Vương quốc Hanthawaddy phục vị vừa lật đổ triều Taungoo, đề không thừa nhận Hanthawaddy, Alaungpaya một tù trưởng người Miến ở làng Moksobo (nay là Shwebo) ngay cạnh Innwa (thủ phủ bang Mandalay) ở Thượng Miến đã phát triển thế lực của mình. Mặc dù sau đó hậu duệ nhà Taungoo vẫn tuyên bố vương quyền, nhưng Alaungpaya không phục mà tự lập nên Triều Konbaung, lấy chính quê mình làm kinh đô. Năm 1757, lực lượng Alaungpaya đã tái thống nhất toàn bộ Miến Điện (và Manipur) và đánh bật Pháp và Anh đang cung cấp vũ trang cho Hanthawaddy.[2]

Ngai vàng sư tử trong đại điện Hoàng cung Amarapura (Tranh của Colesworthy Grant, 1855).

Năm 1759, Triều Konbaung bắt đầu tiến hành xâm lược Ayuthaya của người Thái, nhưng lần thứ nhất thất bại phải triệt thoái, vua Alaungpaya bị thương nặng và chết trên đường rút lui.

Con trai thứ hai của Alaungpaya, Hsinbyushin, lên ngôi sau thời gian ngắn Naungdawgyi (1760–1763), anh trai của mình nắm quyền. Ông tiếp tục chính sách bành trướng của cha mình và cuộc chinh phạt (1764-1766) kết thúc thắng lợi, Ayuthaya thất thủ. Tiếp tục chủ nghĩa bành trướng, Triều Konbaung còn tiến hành xâm lược Lan Na, Lào.

Cải cách

Nhận thấy nhu cầu hiện đại hóa, các quân chủ Konbaung đã cố gắng ban hành nhiều cải cách khác nhau nhưng thành công hạn chế. Vua Mindon Min cùng với em trai của mình là Thái tử Kanaung Mintha đã thành lập các nhà máy quốc doanh để sản xuất vũ khí hiện đại và hàng hóa; cuối cùng, những nhà máy này tỏ ra tốn kém hơn là hiệu quả trong việc ngăn chặn sự xâm lược và chinh phạt của ngoại bang.

Mindon Min cũng cố gắng giảm gánh nặng thuế bằng cách giảm thuế thu nhập cao và tạo ra một loại thuế tài sản, cũng như thuế hải quan đối với hàng xuất khẩu sang nước ngoài. Những chính sách này có tác động ngược lại vì nó làm tăng thêm thuế, quan chức địa phương tận dụng cơ hội để ban hành các loại thuế mới mà không xóa bỏ, giảm các mức thuế cũ; quan chức địa phương có thể làm như vậy vì sự kiểm soát từ trung ương rất yếu. Ngoài ra, thuế đối với hàng xuất khẩu nước ngoài cũng đã kìm hãm thương mại và thương nghiệp đang phát triển.

Các vị vua Konbaung đã mở rộng các cải cách bắt đầu từ thời kỳ Vương triều Toungoo được Phục vị (1599–1752), và đạt được mức độ kiểm soát trong nước, giữ ổn định và mở rộng ra bên ngoài chưa từng có. Triều Konbaung thắt chặt quyền kiểm soát ở các vùng đất thấp và giảm bớt các đặc quyền cha truyền con nối của các tù trưởng Shan. Đồng thời cũng tiến hành các cải cách thương mại nhằm tăng thu nhập của triều đình và khiến ngân khô tăng nhiều hơn. Kinh tế tiền tệ tiếp tục tăng trưởng. Năm 1857, vua Mindon Min đã ban hành một hệ thống chính thức về thuế và lương bổng, được hỗ trợ bởi tiền đúc bằng bạc theo tiêu chuẩn đầu tiên của Miến Điện.

Tuy nhiên, mức độ và tốc độ của các cuộc cải cách không đồng đều và cuối cùng được chứng minh là không đủ để ngăn chặn bước tiến của chủ nghĩa thực dân Anh.

Quan hệ với Xiêm

Năm 1760, Miến Điện bắt đầu một loạt cuộc chiến tranh với Xiêm kéo dài đến giữa thế kỷ 19. Đến năm 1770, những người thừa kế của Alaungpaya đã đánh bại Xiêm La (1767) tam thời, chiếm phần lớn đất nước Lào (1765) và đánh bại bốn cuộc xâm lược của nhà Thanh Trung Quốc (1765–1769). Cuộc chiến với nhà Thanh đã khiến Triều Konbaung không thể duy trì sức mạnh ở Ayuthaya và là thời cơ cho Xiêm trỗi dậy, người Xiêm đã tái chiếm lãnh thổ của mình vào năm 1770, và tiếp tục đánh chiếm Lan Na vào năm 1776. Miến Điện và Xiêm kết thúc chiến tranh cho đến năm 1855 sau nhiều thập niên xung đột liên tục, hai nước đã trao đổi Tenasserim (thuộc Miến Điện) và Lan Na (thuộc Xiêm La).

Quan hệ với Thanh

Lo ngại trước thế lực ngày càng mạnh của Triều Konbaung, năm 1765, Hoàng đế nhà ThanhCàn Long phái quân Vân Nam chinh phạt nhưng thất bại. Ba lần tiếp theo, Càn Long phái quân Bát Kỳ tinh nhuệ sang, song cũng đều thất bại. Năm 1770, bất chấp chiến thắng trước quân đội Trung Quốc, vua Hsinbyushin đã đàm phán hòa bình với nhà Thanh và ký một hiệp ước duy trì thương mại song phương với nhà Thanh, vốn rất quan trọng đối với vương triều lúc bấy giờ. Nhà Thanh sau đó đã mở cửa thị trường và khôi phục giao thương với Miến Điện vào năm 1788 sau khi giảng hòa. Từ đó trở đi, mối quan hệ hòa bình và hữu nghị đã có giữa Trung Quốc và Miến Điện trong một thời gian dài.

Quan hệ với Việt Nam

Năm 1823, các phái đoàn Miến Điện do George Gibson, con trai của một lính đánh thuê người Anh, dẫn đầu đến thành Gia Định Việt Nam. Vua Miến Điện Bagyidaw rất muốn chinh phục Xiêm và hy vọng Việt Nam có thể là một đồng minh hữu ích. Việt Nam sau đó sáp nhập Chân Lạp vào cương thổ. Hoàng đế Việt Nam là Minh Mạng, người vừa lên ngôi sau cái chết của vua Gia Long, vị vua sáng lập nhà Nguyễn. Một đoàn thương mại từ Việt Nam trong thời gian đấy đã có mặt tại Miến Điện, mong muốn mở rộng hoạt động buôn bán yến sào (tổ yến). Tuy nhiên, lợi ích của Bagyidaw trong việc gửi một sứ mệnh trở về là để đảm bảo một liên minh quân sự.

Quan hệ với Anh và sụp đổ

Đối mặt với một nhà Thanh hùng mạnh và một Xiêm đang trỗi dậy ở phía đông, Bodawpaya đã chinh phạt các vương quốc ở phía tây là Arakan (1784), Manipur (1814) và Assam (1817), dẫn đến một biên giới dài không xác định với Ấn Độ thuộc Anh.

Người châu Âu bắt đầu thiết lập các trạm buôn bán ở vùng châu thổ Irrawaddy trong thời kỳ này. Konbaung cố gắng duy trì nền độc lập của mình bằng cách cân bằng giữa người Pháp và người Anh. Cuối cùng thì thất bại, người Anh cắt đứt quan hệ ngoại giao vào năm 1811, vương triều Konbaung đã chiến đấu và thất bại trong ba cuộc chiến chống lại Đế quốc Anh, đỉnh điểm là sự thôn tính hoàn toàn Miến Điện của người Anh.

Người Anh đã đánh bại quân Miến Điện trong Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ nhất (1824–1826) sau những tổn thất to lớn cho cả hai bên, cả về nhân lực và tài sản. Miến Điện phải nhượng lại Arakan, Manipur, Assam và Tenasserim, đồng thời bồi thường một triệu bảng Anh.

Năm 1837, anh trai của Vua Bagyidaw, Tharrawaddy Min, chiếm lấy ngai vàng, quản thúc Bagyidaw và xử tử vương hậu Me Nu và anh trai của bà. Tharrawaddy không cố gắng cải thiện quan hệ với Anh.

Con trai của ông ta, Pagan Min, người trở thành vua năm 1846, đã hành quyết hàng nghìn người - một số nguồn cho biết có tới 6,000 người - những người giàu có hơn và có ảnh hưởng hơn ông ta đều bị cáo buộc nhiều tội danh. Trong thời kỳ trị vì của ông, quan hệ với Anh ngày càng trở nên căng thẳng. Năm 1852, Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ hai bùng nổ. Pagan thoái vị và em trai của mình Mindon Min lên ngôi. Mindon đã cố gắng đưa Miến Điện tiếp xúc nhiều hơn với thế giới bên ngoài, và tổ chức Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ năm vào năm 1872 tại Mandalay, nhận được sự tôn trọng của người Anh và sự ngưỡng mộ của người dân nước này.

Để tránh bị thôn tính, vào năm 1875, Mindon đã nhượng lại Karenni cho Đế quốc Anh. Mindon qua đời trước khi có thể chọn người kế vị, và Thibaw Min, một hoàng tử có địa vị thấp, được vương hậu Hsinbyumashin (vợ của Mindon), cùng với công chúa Supayalat, đưa lên ngai vàng. Sau khi Thibaw đăng quang, Supayalat đã kết hôn với Thibaw để trở thành vương hậu. Dưới sự chỉ đạo của Supayalat, đã tiến hành thảm sát tất cả những người có khả năng tranh giành ngai vàng trong hoàng tộc Konbaung.

Triều đại kết thúc vào năm 1885 với việc nhà vua và hoàng gia buộc phải thoái vị và lưu đày sang Ấn Độ. Trước tình hình Pháp hợp nhất thuộc địa mới chiếm thành Đông Dương thuộc Pháp, Đế quốc Anh đã sát nhập toàn bộ phần còn lại của Miến Điện sau khi kết thúc Chiến tranh Anh-Miến Điện lần thứ ba vào năm 1885. Việc sáp nhập được công bố tại Quốc hội Anh như một món quà năm mới cho Nữ hoàng Victoria vào ngày 1 tháng 1 năm 1886.

Mặc dù vương triều đã chinh phạt những vùng lãnh thổ rộng lớn, nhưng quyền lực trực tiếp của Konbaung chỉ giới hạn ở kinh đô và những vùng đồng bằng màu mỡ của thung lũng Irrawaddy. Những vị vua Konbaung ban hành các loại thuế hà khắc và gặp nhiều khó khăn trong việc chống lại các cuộc nổi loạn trong nước. Vào nhiều thời điểm khác nhau, Shan đã cống nạp cho Vương triều Konbaung, nhưng không giống như các vùng đất Mon, không bao giờ bị kiểm soát trực tiếp bởi người Miến Điện.